Điểm mặt các thành phần dinh dưỡng trong sữa

Sữa là một hỗn hợp với các thành phần chính bao gồm nước, lactose, protein, và các chất béo. Ngoài ra, sữa còn chứa một số hợp chất khác với hàm lượng nhỏ như các hợp chất chứa nitơ phi protein, vitamin, hormone, các chất màu và khí. Hàm lượng các chất trong sữa có thể dao động trong một khoảng rộng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chủng giống vật nuôi, tình trạng sức khỏe, điều kiện chăn nuôi, thành phần thức ăn chăn nuôi, chế độ ăn, thời tiết,…

Trong sữa, đường lactose tồn tại dưới hai dạng: Dạng α-lactose monohydrate C12H22O11.H2O và dạng β-lactose anhydrous C12H22O11. Lactose là đường khử nên có độ ngọt thấp hơn nhiều các loại disaccharide và monosaccharide khác. Khác với các loại đường khác, đường lactose chỉ xuất hiện duy nhất trong sữa động vật. Ngoài lactose, trong sữa còn chứa glucose (hàm lượng trung bình 70mg/l), galactose (20mg/l) và các hợp chất glucid chứa nitơ như N-acetyl glucosamine, N-acetyl galactosesamine, acid N-acetyl neuraminic,…Tuy nhiên, hàm lượng của chúng rất thấp, chỉ ở dạng vết.

Casein là thành phần protein chủ yếu trong sữa. Chúng tồn tại dưới dạng micelle. Mỗi micelle chứa khoảng 65% nước, phần còn lại là các loại casein và khoáng (gồm calci, magie, phosphate và citrate). Casein trong sữa có nguồn gốc từ những chủng, giống bò khác nhau có thể có cấu trúc bậc một khác nhau.

Các protein hòa tan trong sữa: β-lactoglobulin và α-lactalbumin là protein có dạng hình cầu, chúng có cấu trúc của nó gần giống với lysozyme, α–lactalbumin là một metalloprotein, trong mỗi phân tử của nó có chứa một nguyên tử calci nên α-lactalbumin là một protein có giá trị dinh dưỡng cao, thành phần các acid amin trong phân tử của nó rất cân đối. Peptone-proteose là những phân đoạn protein khác nhau, chúng là sản phẩm thuỷ phân tử β-casein bởi phasmine. Người ta còn tìm thấy trong sữa có ba loại immunoglobulin là IgG, IgA và IgM. Trong đó IgG là có hàm lượng cao nhất, đặc biệt trong sữa non, hàm lượng của IgG1 có thể lên đến 80% tổng khối lượng các protein hoà tan trong sữa. IgM là một glyco-protein, cả IgG và IgM đều hoạt động như kháng thể theo cùng một cơ chế là liên kết với kháng nguyên và tạo ra mạng lưới không gian ba chiều không tan. Còn IgA, nó có chức năng chống nhiễm trùng đường ruột, rất có lợi cho cơ thể. Serum-albumin là protein phân tử lượng lớn có nguồn gốc từ máu và không đặc trưng cho sữa. Ngoài ra, trong sữa còn có các protein màng, hàm lượng của chúng rất thấp. Protein màng tạo nên một lớp màng mỏng bao quanh các hạt béo, góp phần làm ổn định hệ nhũ tương trong sữa.

Năm 1881, lần đầu tiên Arnold phát hiện sự có mặt của enzyme trong sữa bò. Enzyme đầu tiên đó là enzyme lactoperoxydase. Từ đó đến nay, rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đã tìm ra thêm hơn 60 loại enzyme khác nhau trong sữa. Phần lớn enzyme trong sữa làm hư hỏng sữa nhanh hơn. Tuy nhiên, một số enzyme trong sữa như lactoperoxydase, lysozyme có vai trò kháng khuẩn. Chúng tham gia vào việc ổn định chất lượng sữa tươi trong quá trình bảo quản trước khi chế biến. Một số loại enzyme chủ yếu trong sữa như: lactoperoxydase, catalase, lipase, phosphatase, lysozyme, protease.

Chất béo trong sữa gồm hai nhóm chính là nhóm hợp chất với glycerol và nhóm hợp chất với sphingosine. Các chất béo trong sữa thường có dạng hình cầu, có đường kính từ 0,1-20μm. Trong 1ml sữa có khoảng 10-15 tỷ hạt cầu béo. Các hạt cầu béo có thành phần chủ yếu là glyceride, phospholipid và protein.

Các vitamin trong sữa được chia làm hai nhóm: vitamin hoà tan trong nước (B1, B6, B12, C,…) và vitamin hoà tan trong chất béo (A, D, E, K). Các vitamin được tổng hợp chủ yếu từ các VSV trong ngăn thứ nhất dạ dày của bò và không phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh. Nhưng bị ảnh hưởng bởi thành phần thức ăn và điều kiện thời tiết.

Hàm lượng chất khoáng trong sữa dao động từ 8-10g/l. Các muối trong sữa ở dạng hoà tan hoặc dung dịch keo (kết hợp với casein). Trong các nguyên tố khoáng trong sữa, chiếm hàm lượng cao nhất là Ca, P, Mg, các khoáng khác như K, Na, Cl đóng vai trò như các chất điện ly. Ngoài ra, sữa còn chứa các nguyên tố khác như Zn, Fe, I, Cu,…chúng rất cần thiết cho quá trình dinh dưỡng của con người.

Trong sữa bò còn chứa các hormone, chúng được chia làm ba nhóm là proteohormone, hormone peptide và hormone steoride, trong số đó prolactine là được biết đến và nghiên cứu nhiều hơn cả, hàm lượng trung bình prolactine trong sữa bò là 50μg/l, trong sữa non là 230μg/l [1, 2, 4]. Ngoài ra, trong sữa bò còn chứa các chất khí, chủ yếu là CO2, O2 và N2. Tổng hàm lượng của chúng chiếm từ 5% đến 6% thể tích sữa. Chúng thường tồn tại ở các dạng hoà tan, dạng liên kết hoá học với chất khác và dạng phân tán. Thỉnh thoảng, người ta còn tìm thấy trong sữa bò một số hợp chất hoá học như: kháng sinh, chất tẩy rửa, kim loại nặng, nguyên tố phóng xạ,…các chất đó đều là các chất độc cho người sử dụng. Hàm lượng của chúng trong sữa thường ở dạng vết. Chúng nhiễm vào sữa do thức ăn, thiết bị vắt sữa, môi trường chuồng trại, nguồn nước,…Các chất này cần phải được loại bỏ ra khỏi sữa để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người sử dụng [1, 2, 4].

Hiện tượng rụng tóc ở trẻ sơ sinh

Tóc của trẻ được phát triển vào khoảng tuần thứ 24 ngay trong thời gian bạn mang thai. Loại tóc này được mọc và phát triển hoàn toàn là dựa vào hormone có trong cơ thể mẹ trong thời gian mang thai. Khi được sinh ra thì do loại hormone này không còn được duy trì nên trẻ sẽ bắt đầu hiện tượng rụng tóc. Thời gian rụng tóc của trẻ sẽ kéo dài từ lúc mới sinh cho đến khi trẻ được 6 tháng tuổi thì chấm dứt. Tóc trưởng thành của bé sẽ được mọc ra xen kẽ trong khi tóc sơ sinh sẽ lần lượt bị rụng đi và được thay thế. Lưu ý rằng nếu sau 6 tháng mà tóc bé vẫn tiếp tục rụng nhiều thì bạn cần đưa bé khám bác sĩ do đây có thể hiệu cảnh báo của sự thiếu hụt dưỡng chất hoặc sức khoẻ của bé có vấn đề. Ngược lại, trong trường hợp tóc bé mọc nhiều, các mẹ cũng không nên cắt tóc cho trẻ sơ sinh quá sớm.

Cắt tóc cho trẻ

.

Post Author: admin